Lợi thế giáp biển, có Cảng cá Rạch Gốc và nhiều cơ sở, doanh nghiệp tham gia hoạt động chế biến thủy sản, ngư dân cửa biển Rạch Gốc - Tân Ân đã phát triển hiệu quả đội tàu dịch vụ hậu cần nghề cá. Hiện, trên địa bàn có hơn 150 phương tiện khai thác thủy sản, trong đó, có gần 20 tàu dịch vụ hậu cần, tạo việc làm cho gần 300 lao động, thu nhập bình quân 7 - 10 triệu đồng/người/tháng. Đã qua, đội tàu này ngoài làm nhiệm vụ thu mua hàng trăm tấn hải sản trên biển mỗi năm còn tham gia cung ứng nguyên, nhiên liệu, vật dụng và các nhu yếu phẩm cho các tàu khai thác, đáp ứng nhu cầu vươn khơi dài ngày của ngư dân, góp phần nâng cao hiệu quả của mỗi chuyến biển.
Hậu cần nghề cá phát triển tạo việc làm cho nhiều lao động nữ
Gia đình anh Võ Văn Mến, khóm 1, thị trấn Rạch Gốc có 2 phương tiện làm nghề câu mực và lưới rê. Theo anh Mến, trước đây, khi chưa có các tàu dịch vụ hậu cần phục vụ trên biển, thời gian đánh bắt chỉ được tối đa 10 ngày do không đủ nguyên, nhiên liệu, nhu yếu phẩm. Hơn nữa, sản phẩm khai thác lại bị ép giá do bảo quản lâu ngày, không đảm bảo được độ tươi ngon. Mấy năm nay, từ khi có đội tàu dịch vụ hậu cần, chi phí cho một chuyến đi biển giảm hẳn. Các loại cá, tôm, mực,… được thu mua ngay trên biển; nhu yếu phẩm, nhiên liệu, đá cây được cung cấp kịp thời. Thậm chí trong quá trình đánh bắt, tàu bị hư hỏng cũng sẽ được sửa chữa hoặc kéo bờ vào nhanh chóng. Nhờ đó, giúp ngư dân yên tâm vươn khơi.
Để ổn định sản lượng hải sản thu mua, mỗi tàu dịch vụ hậu cần thường kết nối chặt chẽ với các tàu khai thác trên biển. Vựa cá của chị Nguyễn Thị Phượng ấp Ô Rô, xã Tân Ân đã đầu tư 2 ghe thu mua, tổng trọng tải gần 70 tấn. Chị Phượng cho biết, để có đủ nguồn hàng cung ứng cho đầu mối ở các tỉnh thành, chị đã liên kết với hơn 20 tàu cá. Khi đánh bắt được nguồn hàng là tàu gọi ra thu mua. Trung bình mỗi chuyến đi thu mua khoảng 2 – 3 ngày, sản lượng hơn 150 tấn/tháng hải sản các loại.
Cùng với đội tàu dịch vụ hậu cần, trên địa bàn có gần 40 cơ sở buôn bán xăng, dầu và 12 cơ sở sản xuất đá lạnh hoạt động thường xuyên nhằm cung ứng nguyên, nhiên liệu cho các phương tiện khai thác. Mỗi tháng, các cơ sở cung ứng trên 7 triệu lít xăng, dầu và hơn 4.000 tấn đá lạnh. Với quyết tâm không để đứt gãy chuỗi cung ứng, phục vụ đảm bảo nguồn nguyên, nhiên liệu cho phương tiện khai thác, các cơ sở kinh doanh mặt hàng này đã có kế hoạch, chủ động nguồn hàng để đảm bảo cung ứng. Nhiều cơ sở còn đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại, nâng cấp, mở rộng quy mô kinh doanh nhằm phục vụ tốt hơn cho ngư dân yên tâm vươn khơi.
Song song đó, thời gian qua, động lực “chấp cánh” cho nghề khai thác thủy, hải sản của huyện phát triển là ở ven bờ hàng trăm cơ sở chế biến thủy sản như: Nhà máy chế biến bột cá, chế biến cá khô, mắm, tôm khô,… ra đời, hoạt động hiệu quả từ nguồn nguyên liệu dồi dào của mỗi chuyến biển.
Tại cơ sở sản chế biến tôm khô, cá khô Thái Ngoan ở khóm 8, thị trấn Rạch Gốc, cứ vào con nước biển là không khí nơi đây thêm nhộn nhịp. Khi ghe đáy hàng khơi mang theo tôm cá cặp bến, hàng chục chị em bắt tay vào những công việc quen thuộc: lựa, rửa, sơ chế, phơi khô tôm cá.
Anh Trần Hồng Thái, chủ cơ sở chế biến tôm khô, cá khô Thái Ngoan cho biết: “Mỗi tháng, cơ sở cung cấp cho thị trường hơn 4 tấn tôm, cá khô. Để đảm bảo đơn hàng, cơ sở thu mua thêm nguồn tôm, cá nguyên liệu từ các phương tiện khai thác trên địa bàn. Ngoài ra, cần từ 10 đến 15 lao động nữ. Hầu hết các chị là lao động tại địa phương, hàng xóm ở gần nhau cùng đến, cùng làm. Gắn bó với cơ sở chúng tôi đã lâu nên các chị rất giỏi nghề, chủ động phân công, cùng nhau làm, mỗi người một việc, đồng lòng tạo ra những mẻ tôm khô, cá khô chất lượng cung cấp cho người tiêu dùng khắp các tỉnh thành. Tùy theo việc mà công lao động được trả theo sản phẩm hoặc tính theo giờ. Trung bình, các chị thu nhập từ 150.000 – 200.000 đồng/ngày”.
Hậu cần nghề cá trở thành điểm tựa vững chắc để ngư dân Ngọc Hiển vươn khơi, mỗi năm sản lượng khai thác của huyện đạt khoảng 30.000 tấn hải sản các loại. Ngoài lao động chuyên bám biển thì dịch vụ hậu cần nghề cá cũng thu hút hàng nghìn lao động tham gia, ngày càng phát triển chuyên nghiệp hơn với mức thu nhập ổn định, góp phần phát triển bền vững ngành nghề chủ lực của địa phương./.